Jamal Musiala |
|||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thông tin cá nhân |
|||||||||||||||||||||||||
Tên đầy đủ | Jamal Musiala | ||||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 26 tháng 2 năm 2003 (21 tuổi) | ||||||||||||||||||||||||
Quốc tịch | nước Đức | ||||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,83 m | ||||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ | ||||||||||||||||||||||||
Thông tin về Câu lạc bộ |
|||||||||||||||||||||||||
Đội hiện tại | Bayern München | ||||||||||||||||||||||||
Số áo | 42 | ||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ |
|||||||||||||||||||||||||
2008-2010 | Tiến sĩ Lehnerz | ||||||||||||||||||||||||
2010-2011 | Southampton | ||||||||||||||||||||||||
2011-2019 | Chelsea | ||||||||||||||||||||||||
2019-2020 | Bayern München | ||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp * |
|||||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||||
đội tuyển quốc gia * |
|||||||||||||||||||||||||
|
Jamal Musiala (sinh năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức, hiện đang chơi cho Câu lạc bộ Bayern Munich và Đội tuyển quốc gia Đức.
1. Tiểu sử của Jamal Musiala
Jamal Musiala (sinh ngày 26 tháng 2 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức, chơi ở vị trí tiền vệ tấn công và tiền vệ chạy cánh cho câu lạc bộ Bundesliga Bayern Munich và đội tuyển quốc gia Đức.
Sinh ra ở Đức với cha là người Anh gốc Nigeria và mẹ là người Đức gốc Ba Lan, anh lớn lên ở Anh từ năm 7 tuổi. Musiala đã chơi cho cả đội tuyển quốc gia Đức và Anh ở cấp độ trẻ, và cuối cùng anh ấy chọn chơi cho đội tuyển quốc gia Đức vào tháng 2 năm 2021. Anh ấy đã tham gia UEFA Euro 2020, FIFA World Cup 2022 và Euro 2024.
Tiểu sử cầu thủ Jamal Musiala
|
2. Thông tin cá nhân
Musiala sinh ra ở Stuttgart, Đức. Cha anh là người Anh gốc Nigeria và mẹ anh là người Đức gốc Ba Lan. Anh sống ở Fulda cho đến năm 7 tuổi, trước khi cùng gia đình chuyển đến Anh. Anh học tiểu học tại Trường Corpus Christi ở New Malden. Anh chơi bóng cho câu lạc bộ của trường và cũng chơi cho các câu lạc bộ Fulham, Brentford và Wimbledon ở EFL Utilita Kids Cup và hai lần vô địch ở giải đấu này. Anh học trung học tại trường Whitgift ở Croydon và gia nhập học viện Chelsea trong những năm cuối đời ở Anh. Năm 16 tuổi, Musiala cùng mẹ trở về Đức vì lý do cá nhân và Brexit (Anh rời khỏi Liên minh châu Âu) sắp xảy ra.
3. Sự nghiệp thi đấu
3.1. Sự nghiệp câu lạc bộ
3.1.1. Bayern München
2019–20: Mùa công chiếu
Vào tháng 7 năm 2019, ở tuổi 16, Musiala rời Chelsea để gia nhập câu lạc bộ Bundesliga Bayern Munich. Vào ngày 3 tháng 6 năm 2020, Musiala có trận ra mắt chuyên nghiệp khi vào sân thay người cho Bayern Munich II trong chiến thắng 3–2 trước Preußen Münster ở 3. Liga. Vào ngày 20 tháng 6 năm 2020, anh có trận ra mắt Bundesliga trước SC Freiburg và trở thành cầu thủ trẻ nhất chơi một trận cho Bayern ở Bundesliga khi mới 17 tuổi 115 ngày. Musiala là một phần của đội đã vô địch UEFA Champions League 2019–20, mặc dù anh ấy không ra sân trận nào ở giải đấu này.
2020–21: Đột phá ở đội một
Vào ngày 18 tháng 9 năm 2020, Musiala ghi bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga trong chiến thắng 8–0 trước Schalke, trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất của Bayern, ở tuổi 17 205 ngày, phá kỷ lục trước đó của Roque Santa Cruz, 18 tuổi 12 ngày. . Vào ngày 3 tháng 11, Musiala có trận ra mắt Champions League khi vào sân thay cho Thomas Müller trong chiến thắng 6–2 trên sân khách trước Red Bull Salzburg. Vào ngày 1 tháng 12, anh đá chính trong trận đấu đầu tiên tại Champions League, trận hòa 1-1 trên sân khách trước Atlético Madrid. Vào ngày 23 tháng 2 năm 2021, Musiala ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League trong chiến thắng 4–1 trên sân khách trước Lazio ở trận lượt đi vòng 16 đội, trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất của giải đấu ở bất kỳ quốc tịch nào. Anh và Đức. Anh cũng trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất cho Bayern ở một giải đấu châu Âu khi mới 17 tuổi 363 ngày, phá kỷ lục trước đó của Samuel Kuffour. Vào ngày 5 tháng 3, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Bayern Munich có thời hạn đến năm 2026.
2021–nay: Tiếp tục phát triển và quyết định danh hiệu Bundesliga
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2021, Musiala ghi hai bàn thắng đầu tiên trong mùa giải trong chiến thắng 12–0 trên sân khách ở DFB-Pokal trước Bremer SV. Ba ngày sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải tại Bundesliga trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Hertha BSC. Vào ngày 8 tháng 12 năm 2021, Musiala ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải tại Champions League trong chiến thắng 3–0 trước Barcelona. Vào ngày 23 tháng 4 năm 2022, pha lập công của Musiala đã ấn định chức vô địch Bundesliga trong chiến thắng 3–1 trước Borussia Dortmund tại Der Klassiker, mang lại cho Bayern danh hiệu Bundesliga thứ 10 liên tiếp.
Vào ngày 27 tháng 5 năm 2023, Musiala ghi bàn thắng quyết định ở phút thứ 89 trong chiến thắng 2-1 trên sân khách trước FC Köln. Bàn thắng này đã đảm bảo chức vô địch thứ 11 liên tiếp cho câu lạc bộ của anh một lần nữa trước đối thủ Dortmund về hiệu số bàn thắng bại. Hơn nữa, anh kết thúc mùa giải với tư cách là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng thứ hai cho Bayern trong giải đấu với 12 bàn thắng, sau Serge Gnabry.
Trong mùa giải 2023–24, anh ghi 13 bàn trên mọi đấu trường, trong đó có 10 bàn ở Bundesliga, kết thúc chiến dịch với tư cách là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng thứ hai cho câu lạc bộ sau Harry Kane.
Jamal Musiala tại Bayern Munich vào năm 2022
|
3.2. Sự nghiệp thi đấu quốc tế
3.2.1. Đội trẻ
Vào tháng 11 năm 2020, Musiala lần đầu tiên được gọi vào đội tuyển U21 Anh tham dự các trận đấu vòng loại Giải vô địch U21 châu Âu 2021 của UEFA. Anh ấy có trận ra mắt đội U21 khi vào sân thay người trong trận thắng 3–1 trước Andorra U21 tại Sân vận động Molineux vào ngày 13 tháng 11 năm 2020. Anh ấy ghi bàn thắng đầu tiên cho đội U21 trong chiến thắng 5–0 trước Albania cũng tại Sân vận động Molineux vào ngày 17 tháng 11 2020. Sau khi được chọn làm đại diện cho đội U21 Anh, hiệp hội bóng đá Đức cho biết họ đã ngừng theo đuổi Musiala, huấn luyện viên đội trẻ Đức Meikel Schönweitz nói: “Anh ấy [Musiala] đã báo hiệu rõ ràng cho chúng tôi rằng giờ đây anh ấy đã nhìn thấy tương lai của mình với các đội tuyển quốc gia Anh. Chúng tôi chấp nhận quyết định của anh ấy và chúc anh ấy mọi điều tốt đẹp nhất cho sự nghiệp thể thao của mình.” Musiala trước đây đã chỉ ra rằng anh ấy cảm thấy thoải mái hơn khi chơi cho đội tuyển Anh ở cấp độ cao hơn so với đội tuyển Đức, khi anh ấy lớn lên với tư cách là một cầu thủ bóng đá ở Chelsea với các đội bóng Anh khác. các cầu thủ, trong khi đối với đội tuyển Đức, anh ấy không biết bất kỳ cầu thủ nào khác.
Jamal Musiala chơi cho đội tuyển U21 Anh
|
3.2.2. đội tuyển Đức
Vào ngày 24 tháng 2 năm 2021, Musiala thông báo anh đã quyết định đại diện cho đất nước nơi mình sinh ra là Đức ở cấp độ quốc tế. Sau đó, anh lần đầu tiên được gọi vào đội tuyển quốc gia tham dự vòng loại FIFA World Cup 2022 vào tháng 3 năm 2021, ra mắt vào ngày 25 tháng 3 năm 2021 với tư cách là người thay thế ở phút thứ 79. trong chiến thắng 3–0 trước Iceland.
Euro 2020
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2021, Musiala được chọn vào đội tuyển Đức tham dự UEFA Euro 2020. Vào ngày 23 tháng 6 năm 2021, anh trở thành cầu thủ Đức trẻ nhất góp mặt trong một giải đấu lớn cho đội tuyển quốc gia Đức trong trận hòa 2–2 với Hungary, tại giải đấu 18 tuổi 117 ngày. Trong trận đấu, Musiala đã kiến tạo bàn gỡ hòa muộn của Leon Goretzka để đưa Đức vào vòng 16. Anh được tung vào sân thay người trong trận đấu ở vòng 16 với Anh, đội mà Đức đã thua.
Vòng loại World Cup 2022
Vào ngày 11 tháng 10 năm 2021, Musiala ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong chiến thắng 4–0 trước Bắc Macedonia, trở thành cầu thủ trẻ thứ hai ghi bàn cho đội tuyển quốc gia Đức, khi mới 18 tuổi 227 ngày, chỉ sau Marius Hiller, tại 17 tuổi 241 ngày vào năm 1910.
Cúp thế giới 2022
Vào ngày 10 tháng 11 năm 2022, Musiala được triệu tập tham dự FIFA World Cup 2022 tại Qatar. Vào ngày 23 tháng 11, anh có trận ra mắt World Cup trước Nhật Bản, trở thành cầu thủ thiếu niên Đức đầu tiên góp mặt tại giải đấu kể từ năm 1958 và là cầu thủ Đức trẻ thứ tư, 19 và 270 tuổi. trong tất cả các lần tham dự World Cup, chỉ xếp sau: Karl-Heinz Schnellinger, Leopold Neumer và Edmund Conen. Trong trận đấu đó, Youssoufa Moukoko được thay ra ở phút 90, trở thành cầu thủ trẻ nhất từ trước đến nay, và Musiala sau đó trở thành cầu thủ thứ năm. Vào ngày 1 tháng 12, anh ấy đã hoàn thành 13 lần rê bóng, kém hai lần so với kỷ lục 15 lần rê bóng của Jay-Jay Okocha vào năm 1994, trong chiến thắng 4–2 trước Costa Rica, tuy nhiên Đức đã thắng và bị loại khỏi vòng bảng khi họ đứng thứ ba trong bảng.
Euro 2024
Vào ngày 7 tháng 6 năm 2024, Musiala có tên trong đội tuyển Đức tham dự UEFA Euro 2024. Vào ngày 14 tháng 6, anh được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất trận trong trận mở màn với Scotland, nơi anh ghi bàn trong chiến thắng 5–1, trở thành cầu thủ Đức trẻ thứ hai ghi bàn trong giải đấu, hơn đồng đội Florian Wirtz 67 ngày. Anh ghi bàn ở phút 68 cho Đức trong trận đấu ở vòng 16 đội với Đan Mạch vào ngày 29 tháng 6. Với 3 bàn thắng tại giải, Musiala đã được trao Chiếc giày vàng cùng 6 cầu thủ khác.
4. Phong cách chơi
Là một cầu thủ đa năng, Musiala chơi ở cả hai cánh và ở mọi vị trí ở hàng tiền vệ. Theo Hansi Flick, người đã cho Musiala ra mắt FC Bayern Munich: “Anh ấy có con mắt tinh tường và khả năng chọn không gian phù hợp. Anh ấy rất tự tin với trái bóng và có thể chơi tốt giữa các tuyến.”
5. Thống kê sự nghiệp thi đấu
5.1. Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ
– Tính đến trận đấu diễn ra ngày 02/10/2024
câu lạc bộ | Mùa | Liên minh | Cúp DFB | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Phân công | Trận đánh | Bàn | Trận đánh | Bàn | Trận đánh | Bàn | Trận đánh | Bàn | Trận đánh | Bàn | ||
Bayern München II | 2019–20 | 3. Giải đấu | 8 | 2 | — | — | — | 8 | 2 | |||
2020–21 | 3. Giải đấu | 2 | 0 | — | — | — | 2 | 0 | ||||
Tổng cộng | 10 | 2 | — | — | — | 10 | 2 | |||||
Bayern München | 2019–20 | Bundesliga | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 |
2020–21 | Bundesliga | 26 | 6 | 2 | 0 | 6 | 1 | 3 | 0 | 37 | 7 | |
2021–22 | Bundesliga | 30 | 5 | 1 | 2 | 8 | 1 | 1 | 0 | 40 | 8 | |
2022–23 | Bundesliga | 33 | 12 | 4 | 3 | 9 | 0 | 1 | 1 | 47 | 16 | |
2023–24 | Bundesliga | 24 | 10 | 2 | 0 | 11 | 2 | 1 | 0 | 38 | 12 | |
2024–25 | Bundesliga | 5 | 3 | 1 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 8 | 3 | |
Tổng cộng | 119 | 36 | 10 | 5 | 36 | 4 | 6 | 1 | 171 | 46 | ||
Tổng số sự nghiệp | 129 | 38 | 10 | 5 | 36 | 4 | 6 | 1 | 181 | 48 |
5.2. Thống kê sự nghiệp của đội tuyển quốc gia
– Tính đến ngày 21 tháng 9 năm 2024
đội tuyển quốc gia | Năm | Trận đánh | Bàn |
đức hạnh | 2021 | 9 | 1 |
2022 | 11 | 0 | |
2023 | 5 | 1 | |
2024 | 11 | 4 | |
Tổng cộng | 36 | 6 |
Bàn thắng được ghi cho đội tuyển quốc gia
KHÔNG | Ngày | Điểm | Xuất sắc | BT | KQ | Phần thưởng |
1 | 11/10/21 | Sân vận động quốc gia Toše Proeski, Skopje, Bắc Macedonia | Bắc Macedonia | 4-0 | 4-0 | Cúp thế giới VL |
2 | 14/10/23 | Sân vận động Pratt & Whitney, Đông Hartford, Mỹ | Mỹ | 3-1 | 3-1 | Thân thiện |
3 | 14/06/24 | Đấu trường Allianz, Munich, Đức | Scotland | 2-0 | 5-1 | Euro |
4 | 19/06/24 | Sân vận động MHPArena, Stuttgart, Đức | Hungary | 1-0 | 2-0 | |
5 | 29/06/24 | Sân vận động Westfalenstadion, Dortmund, Đức | Đan Mạch | 2-0 | 2-0 | |
6 | 07/09/24 | Sân vận động Merkur Spiel-Arena, Düsseldorf, Đức | Hungary | 2-0 | 5-0 | Liên đoàn các quốc gia UEFA |
6. Danh hiệu của Jamal Musiala
6.1. Danh hiệu câu lạc bộ
Bayern München
- Bundesliga: 2019–20, 2020–21, 2021–22, 2022–23.
- DFL-Siêu cúp: 2020, 2021, 2022.
- Siêu cúp UEFA: 2020.
- Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ: 2020.
6.2. Danh hiệu cá nhân
- Đội tuyển trẻ nam IFFHS (U20) thế giới: 2021, 2022, 2023
- Tân binh của tháng Bundesliga: Tháng 4 năm 2021
- Bàn thắng đẹp nhất tháng của Bundesliga: Tháng 3 năm 2024
- Đội hình xuất sắc nhất mùa giải Bundesliga: 2022–23, 2023–24
- Đội bóng Bundesliga xuất sắc nhất mùa giải: 2021–22, 2022–23
- Đội hình VDV Bundesliga xuất sắc nhất mùa giải: 2022–23, 2023–24
- Cầu thủ xuất sắc nhất quốc gia Đức: 2022
- Á quân Kopa Trophy: 2023
- Vua phá lưới giải vô địch châu Âu UEFA: 2024
- Đội vô địch giải đấu châu Âu của UEFA: 2024